Thú vị

Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2016

Màu tím hoa sim . Ngâm thơ Hữu Loan ( full)



Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Màu tím hoa sim . Ngâm thơ  Hữu Loan ( full).
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)
Màu tím hoa sim là một bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Hữu Loan, được sáng tác năm 1949 tại Thanh Hoá, vào thời điểm được cho là sau khi người vợ đầu tiên của tác giả qua đời.

Bài thơ xuất hiện đầu tiên trên tờ Trăm Hoa của Nguyễn Bính. Trong vụ án Nhân văn giai phẩm, nó bị coi là thứ văn chương ủy mị, mang tư tưởng tiểu tư sản, và là một trong những bằng chứng để bộ văn hóa đương thời kết tội tác giả của nó. Tuy nhiên bài thơ vẫn được truyền đi rộng rãi trong công chúng bằng những bản chép tay và được đưa vào miền Nam Việt Nam, tại đây bài thơ đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc thành những bài hát nổi tiếng. Vào năm 2004, nó được mua bản quyền với giá 100 triệu đồng tiền Việt Nam, trở thành một kỷ lục Việt Nam.
Năm 1990, bài thơ được in lần đầu trong một tập thơ, đó cũng là tập thơ đầu tiên được xuất bản của Hữu Loan: Màu tím hoa sim..Sự nổi tiếng của bài thơ còn được góp công phần nào bởi các nhạc sĩ: Dzũng Chinh, Phạm Duy, Anh Bằng, Duy Khánh... là những người đã phổ nhạc dựa trên ý thơ của bài. Riêng bài "Những đồi hoa sim" của Dzũng Chinh và "Áo anh sứt chỉ đường tà" của Phạm Duy, một bi ca, một hùng ca, cho đến nay vẫn là những tác phẩm nổi tiếng nhất dựa trên bài thơ Màu tím hoa sim.



1- Bài "Những đồi hoa sim" do Dzũng Chinh (sau
này trên internet lại viết là Chinh Dzũng) là bài được phổ biến sớm
nhất (1962?), được ca sĩ Phương Dung trình bày. Bài phổ được viết theo
điệu Tango-Habanera, là điệu thịnh hành của giới trẻ thời đó. Dzũng
Chinh phổ thơ nhưng phải sửa lại lời rất nhiều, vì ông phải tuân theo
khuôn khổ kinh điển của một ca khúc (gồm 3 đoạn: phiên khúc 1, phiên
khúc 2, điệp khúc rồi phiên khúc 3). Bây giờ khi nghe lại trên internet,
thực sự là chất giọng của Phương Dung không mấy thay đổi. Không biết
Phương Dung hát lại bài này vào năm nào? Nhưng khi nghe lại, tôi vẫn
mường tượng ra được tiếng cây kim đang "cào" trên đĩa nhựa 45 vòng,
giọng hát của ca sĩ bị lệch âm vì đĩa nhựa bị vênh méo...

 2- Bài "Màu tím hoa sim", do Duy Khánh phổ
nhạc với giọng ca Hoàng Oanh là bài được lưu hành sau đó. Đây là bài phổ
nhạc vẫn giữ hầu như nghuyên vẹn lời bài thơ gốc của Hữu Loan. Cũng
trên nhịp điệu Tango - Habanera, hồn bài hát có vẻ đượm nhiều nước mắt
hơn bài của Dzũng Chinh. Bài này được ít biết đến nhất, kể cả trong giới
trí thức lẫn bình dân.

- Bài "Áo anh sứt chỉ đường tà". Lời thơ của
Hữu Loan được bàn tay "phù thủy" của Phạm Duy sắp xếp lại để chuyển từ
Thi sang Ca. Đó là kỹ thuật rất cần thiết trong phổ nhạc. Xin nói thêm:
phạm Duy là nhạc sĩ đã phổ nhạc rất thành công nhiều bài thơ nổi tiếng.
Bài thơ thì bị khống chế bởi luật vần, do đó khi chuyển sang nhạc cần
phải làm cho nó được tự do bay nhảy hơn trong khuôn khổ của tiết tấu.
Trước nhất, bài này không đơn điệu một tiết tấu như hai bài trước. Lúc
thì trầm lắng ưu tư, lúc thì sôi nổi nhịp khúc quân hành nơi chiến trận.
Bài thơ được phổ ra nhạc theo kiểu trường ca, nhiều đoạn, nhiều hình
thức thể hiện khác nhau theo kiểu nhạc kịch opera.

Màu tím hoa sim . Ngâm thơ Hữu Loan ( full)





Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Màu tím hoa sim . Ngâm thơ  Hữu Loan ( full).
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)
Màu tím hoa sim là một bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Hữu Loan, được sáng tác năm 1949 tại Thanh Hoá, vào thời điểm được cho là sau khi người vợ đầu tiên của tác giả qua đời.

Bài thơ xuất hiện đầu tiên trên tờ Trăm Hoa của Nguyễn Bính. Trong vụ án Nhân văn giai phẩm, nó bị coi là thứ văn chương ủy mị, mang tư tưởng tiểu tư sản, và là một trong những bằng chứng để bộ văn hóa đương thời kết tội tác giả của nó. Tuy nhiên bài thơ vẫn được truyền đi rộng rãi trong công chúng bằng những bản chép tay và được đưa vào miền Nam Việt Nam, tại đây bài thơ đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc thành những bài hát nổi tiếng. Vào năm 2004, nó được mua bản quyền với giá 100 triệu đồng tiền Việt Nam, trở thành một kỷ lục Việt Nam.
Năm 1990, bài thơ được in lần đầu trong một tập thơ, đó cũng là tập thơ đầu tiên được xuất bản của Hữu Loan: Màu tím hoa sim..Sự nổi tiếng của bài thơ còn được góp công phần nào bởi các nhạc sĩ: Dzũng Chinh, Phạm Duy, Anh Bằng, Duy Khánh... là những người đã phổ nhạc dựa trên ý thơ của bài. Riêng bài "Những đồi hoa sim" của Dzũng Chinh và "Áo anh sứt chỉ đường tà" của Phạm Duy, một bi ca, một hùng ca, cho đến nay vẫn là những tác phẩm nổi tiếng nhất dựa trên bài thơ Màu tím hoa sim.





- Bài "Những đồi hoa sim" do Dzũng Chinh (sau
này trên internet lại viết là Chinh Dzũng) là bài được phổ biến sớm nhất
(1962?), được ca sĩ Phương Dung trình bày. Bài phổ được viết theo điệu
Tango-Habanera, là điệu thịnh hành của giới trẻ thời đó. Dzũng Chinh phổ
thơ nhưng phải sửa lại lời rất nhiều, vì ông phải tuân theo khuôn khổ
kinh điển của một ca khúc (gồm 3 đoạn: phiên khúc 1, phiên khúc 2, điệp
khúc rồi phiên khúc 3). Bây giờ khi nghe lại trên internet, thực sự là
chất giọng của Phương Dung không mấy thay đổi. Không biết Phương Dung
hát lại bài này vào năm nào? Nhưng khi nghe lại, tôi vẫn mường tượng ra
được tiếng cây kim đang "cào" trên đĩa nhựa 45 vòng, giọng hát của ca sĩ
bị lệch âm vì đĩa nhựa bị vênh méo...2- Bài "Màu tím hoa sim", do Duy Khánh phổ
nhạc với giọng ca Hoàng Oanh là bài được lưu hành sau đó. Đây là bài phổ
nhạc vẫn giữ hầu như nghuyên vẹn lời bài thơ gốc của Hữu Loan. Cũng
trên nhịp điệu Tango - Habanera, hồn bài hát có vẻ đượm nhiều nước mắt
hơn bài của Dzũng Chinh. Bài này được ít biết đến nhất, kể cả trong giới
trí thức lẫn bình dân.- Bài "Áo anh sứt chỉ đường tà". Lời thơ của
Hữu Loan được bàn tay "phù thủy" của Phạm Duy sắp xếp lại để chuyển từ
Thi sang Ca. Đó là kỹ thuật rất cần thiết trong phổ nhạc. Xin nói thêm:
phạm Duy là nhạc sĩ đã phổ nhạc rất thành công nhiều bài thơ nổi tiếng.
Bài thơ thì bị khống chế bởi luật vần, do đó khi chuyển sang nhạc cần
phải làm cho nó được tự do bay nhảy hơn trong khuôn khổ của tiết tấu.
Trước nhất, bài này không đơn điệu một tiết tấu như hai bài trước. Lúc
thì trầm lắng ưu tư, lúc thì sôi nổi nhịp khúc quân hành nơi chiến trận.
Bài thơ được phổ ra nhạc theo kiểu trường ca, nhiều đoạn, nhiều hình
thức thể hiện khác nhau theo kiểu nhạc kịch opera.

Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2016

chuyện Tích chu



Chuyện : Tích chu

nội dung Ngày xửa ngày xưa, có một cậu bé tên là Tích Chu. Bố mẹ mất sớm, Tích Chu ở với bà.



Hàng ngày bà phải làm việc vất vả kiếm tiền nuôi Tích Chu, có thức gì ngon bà cũng dành cho Tích Chu ăn. Khi Tích Chu ngủ thì bà thức quạt.







Thế nhưng cậu bé Tích Chu lại chẳng thương bà. Cậu suốt ngày mải mê rong chơi. Vì tuổi già sức yếu, làm việc vất vả, ăn uống lại kham khổ nên bà bị ốm. Một ngày nọ bà lên cơn sốt cao, trên giường bà cất tiếng gọi:



– Tích Chu ơi, cho bà ngụm nước. Bà khát quá!



cau-be-tich-chu-



Bà gọi một lần, hai lần…rồi ba lần nhưng vẫn chẳng thấy Tích Chu đâu. Khát quá bà liền biến thành chim.Đúng lúc đó Tích Chu thấy đói nên chạy về nhà kiếm cái ăn. Tích Chu gọi bà :



– Bà ơi! Bà có cái gì ăn không? Cháu đói quá.



Cậu bé Tích Chu sửng sốt khi thấy bà hóa thành chim. Tích Chu gọi



– Bà ơi! Bà ơi! Bà ở lại với cháu. Cháu sẽ mang nước cho bà, bà ơi!



Chú chim cất tiếng nói:



– Tích Chu ơi, bà khát nước quá, bà phải biến thành chim bay đi kiếm nước uống. Bà đi đây !



Nói rồi chim vỗ cánh bay đi. Tích Chu hoảng quá vội vàng chạy theo, vừa chạy vừa gọi bà:



– Bà ơi! Bà đừng đi! Bà đừng bỏ cháu! Bà ơi!



truyen-co-tich-cau-be-tich-chu



Tích Chu cứ chạy mãi, chạy mãi theo chú chim. Cuối cùng Tích Chu gặp chim đang uống nước ở một dòng suối mát. Tích Chu gọi:



– Bà ơi! Bà trở về với cháu đi. Cháu sẽ đi lấy nước cho bà, cháu sẽ không làm bà buồn nữa!



Chim liền cất tiếng:



– Muộn quá rồi cháu ơi! Bà không trở lại được nữa đâu!



Nghe chim nói, Tích Chu òa khóc, Tích Chu thương bà và hối hận nhưng không biết làm sao để bà quay lại. Tưởng như đã tuyệt vọng, giữa lúc đó, có một cô tiên hiện ra và bảo Tích Chu:



– Tích Chu ơi! Vì cháu chưa ngoan, chưa biết chăm sóc khi bà ốm nên bà đã biến thành chim để bay đi tìm nước uống rồi.



Tích Chu vừa khóc nức nở vừa nói:



– Cô tiên ơi! Làm thế nào để cháu cứu được bà cháu bây giờ.



Cô tiên nói:



– Ta cho cháu bình nước này, nếu cháu muốn bà trở lại thành người thì cháu phải đi lấy nước suối Tiên cho bà cháu uống. Đường lên suối Tiên xa lắm, cháu có đi được không?



truyen-co-tich-cau-be-tich-chu-



– Cháu cám ơn cô. Cháu sẽ cố gắng để cứu được bà cháu.



Cậu bé Tích Chu mừng rỡ vô cùng, vội vàng hỏi đường đến suối Tiên, rồi chẳng một phút chần chừ, Tích Chu hăng hái đi ngay. Tích Chu chạy mãi, chạy mãi vượt qua bao nhiêu rừng núi hiểm trở, cuối cùng Tích Chu cũng đến được suối tiên. Chú vội vàng lấy đầy bình nước mang về cho bà. Về đến nhà Tích Chu gọi to:



– Bà ơi! Bà ơi! Cháu mang nước về cho bà rồi đây. Bà mau uống đi.



Vừa được uống nước chim vỗ cánh bay đi, bà Tích Chu trở lại thành người. Tích Chu ôm chầm lấy bà vừa khóc vừa nói:



– Bà ơi! Cháu biết lỗi rồi, từ nay trở đi cháu sẽ luôn ở bên và chăm sóc bà.



Từ đấy, cậu bé Tích Chu hết lòng yêu thương chăm sóc bà. Hai bà cháu lại chung sống hạnh phúc bên nhau.


Thứ Tư, 16 tháng 3, 2016

Chuyện Công chúa thủy cung





Chuyện : Công  chúa thủy cung
nội dung Ngày xưa, có một nàng công chúa xinh đẹp con của Thuỷ Tề (vua của Sông Biển), một hôm hoá thành con cá bơi ngược dòng sông để du ngoạn. Chẳng may, cá mắc phải lưới của một người thuyền chài. Cá công chúa bị bắt, thả vào gầm thuyền, bị đói cả ngày không có gì ăn. May có người con trai ông thuyền chài ngồi ăn làm rớt cơm xuống, cá công chúa mới khỏi chết đói.

Trông thấy cô cái xinh đẹp, người con trai chủ thuyền bắt lên chơi rồi anh tuột tay làm rơi cá xuống sông. Nhờ vậy, công chúa được trở về thuỷ cung an toàn.

Tuy nhiên, từ ngày trở về cung điện, công chuá đâm ra tưởng nhớ đến người con trai ở trần gian đã vô tình cứu mình. Công chuá sinh ra ốm bệnh tương tự. Vua cha là Thủy Vương hỏi duyên cớ, công chuá thật tình thưa lại đầu đuôi câu chuyện, rồi xin phép vua cha đội lốt làm người lên ở trên mặt đất để kết duyên vợ chồng cùng chàng trai kia.

Lúc bấy giờ, chàng trai này đang ở hang Non Nước (tỉnh Ninh Bình ngày nay), sau khi cha mẹ đã mất, chàng ngày ngày đi câu cá để sống. Một hôm, nàng công chúa Thủy Cung tìm đến gặp làm quen, rồi người lấy nhau. Vợ chồng tuy sống trong cảnh nghèo túng, nhưng rất hạnh phúc, hết sức thương yêu nhau.

Chàng và nàng sống giữa hòn đảo Non Nước vắng vẻ, cách biệt đời sống dân gian. Vợ chồng có tình duyên đằm thắm, cho đến ngày kia, nàng đưa chồng cùng về thăm Thuỷ Cung. Từ đó biền biệt, không còn ai thấy 2 người nữa. Dân gian ngày nay có truyền câu ca dao:

"Chung quanh những chị em người
Giữa hòn Non Nước mình tôi với chàng"

Câu ca dao nhắc đến mối tình hi hữu của nàng công chúa con của Thần Nước, với anh chàng đánh cá ở miền Bắc Việt Nam.

Thứ Bảy, 12 tháng 3, 2016

Chuyện chú cuội cung trăng



Ngày xưa ở một miền nọ có một người tiều phu tên là Cuội. Một hôm, như lệ thường, Cuội vác rìu vào rừng sâu tìm cây mà chặt. Khi đến gần một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy có bốn con cọp con đang vờn nhau. Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm kinh hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một cây cao. Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Chưa đầy ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về.
Dọc đường gặp một ông lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại, bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông già! Mầu nhiệm làm sao, mớm vừa xong, ông lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội thực tình kể lại đầu đuôi. Nghe xong ông lão kêu lên:
- Trời ơi! Cây này chính là cây có phép "cải tử hoàn sinh" đây. Thật là trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng nhớ đừng tưới bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó!
Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì gánh cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong.
Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai nhắm mắt tắt hơi là Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi.
Một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quýt theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy, Cuội có thêm một con vật tinh khôn làm bạn.
Một lần khác, có lão nhà giàu ở làng bên hớt hải chạy đến tìm Cuội, vật nài xin Cuội cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ một lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội.
Vợ chồng Cuội sống với nhau thuận hòa, êm ấm thì thốt nhiên một hôm, trong khi Cuội đi vắng, có bọn giặc đi qua nhà Cuội. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi ác. Chúng bèn giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người đàn bà vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao nhiêu lá vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được.
Thấy chủ khóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ. Cuội chưa từng làm thế bao giờ, nhưng cũng liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó có nghĩa, Cuội bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất, rồi đặt vào bụng chó, chó cũng sống lại. Vợ với chồng, người với vật lại càng quấn quýt với nhau hơn xưa.
Nhưng cũng từ đấy, tính nết vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội lắm lúc bực mình. Ðã không biết mấy lần, chồng dặn vợ: "Có đái thì đái bên Tây, chớ đái bên Ðông, cây dông lên trời!". Nhưng vợ Cuội hình như lú ruột, lú gan, vừa nghe dặn xong đã quên biến ngay.
Một buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, cứ nhằm vào gốc cây quý mà đái. Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời.
Vừa lúc đó thì Cuội về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không một sức nào cản nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên đến cung trăng.
Từ đấy Cuội ở luôn cung trăng với cả cái cây quý của mình. Nhìn lên Mặt Trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa....

Thứ Sáu, 11 tháng 3, 2016

Chuyện Ngôi nhà trong rừng

Có một bác tiều phu nghèo sống với vợ và ba con gái trong túp lều nhỏ ven một khu rừng hẻo lánh. Một buổi sớm, lúc sắp đi làm bác dặn vợ: "Trưa nay mình để đứa lớn mang thức ăn vào rừng cho ta nhé, tôi về sợ làm không hết việc". Bác nói thêm: "Để nó khỏi lạc, tôi sẽ đem theo một túi kê rải dọc lối đi". 

Mặt trời vừa lên tới giữa đỉnh đầu, cô con gái lớn xách một liễn cháo đầy lên đường. Nhưng lũ sẻ đồng và sẻ rừng, lũ sơn ca và họa mi, lũ sáo sậu và phù dung đã nhặt hết các hạt kê từ lâu rồi, cô bé không thể nào tìm được dấu hướng đường nữa. Cô cứ liều đi, mãi cho tới khi mặt trời đã lặn và đêm xuống nghe cây cối rì rào trong bóng tối, lại nghe tiếng cú rúc, cô bắt đầu sợ.
Chợt cô thấy phía xa có ánh đèn lấp ló sau hàng cây. Cô nghĩ bụng chắc là ở đó có người, mình có thể tới xin ngủ được. Cô đi về phía ánh đèn. Chỉ một lúc sau, cô đã tới một ngôi nhà, cửa sổ có ánh đèn. Cô gõ cửa. Một giọng khàn khàn từ trong nói ra: "Cứ vào". Cô bước lên nền nhà tối mò gõ cửa."Cứ vào đi".
Lại có tiếng gọi. Cô mở cửa thấy một ông già tóc hoa râm ngồi bên bàn, đầu đặt lên hai bàn tay, chòm râu bạc rải qua mặt bàn gần đến đất. Lại có ba con vật đang nằm bên lò sưởi: một con gà mái, một con gà trống và một con bò sữa có bộ lông đốm sặc sỡ. Cô bé kể cho ông cụ nghe chuyện của mình và xin ngủ nhờ một đêm. Ông cụ quay lại hỏi mấy con vật: 
Ới gà mái! Ới gà trống! Ới bò hoa lông đốm! Chúng mày nghĩ sao? 
"Được", mấy con vật đồng thanh trả, như thế là chúng mày đã bằng lòng. Ông cụ bảo: "Ở đây chẳng thiếu một thứ gì, con hãy xuống bếp nấu bữa ăn tối cho chúng ta đi". 
Cô bé xuống bếp, thấy quả là thứ gì cũng thừa thãi. Cô nấu bữa ăn thật ngon, song quên khuấy mất mấy con vật. Cô bưng lên dọn trên bàn một bàn đầy rồi ngồi vào cùng ăn với ông cụ cho đỡ đói lòng. Ăn xong cô hỏi: "Con mệt lắm, giờ chỉ muốn nằm ngủ, giường ở đâu xin cụ chỉ giùm". 
Mấy con vật đồng thanh đáp: 
Cô đã ăn với cụ ấy, Cô đã uống với cụ ấy, Cô chẳng đoái tới bọn này Giờ ngủ đâu, cô liệu lấy. 
Ông cụ bảo cô bé: "Con cứ lên gác, sẽ thấy một cái phòng có hai cái giường, trải khăn trắng, ta cũng buồn ngủ rồi đây". 
Cô bé trèo lên, giũ giường trải khăn xong, cô nằm quay ra ngủ không đợi ông già. Một lát sau ông cụ cũng lên soi đèn thấy cô đã ngủ say rồi, ông cụ lắc đầu, mở luôn một cái cửa hầm cho cô bé rơi xuống đó. Mãi hôm sau, bác tiều phu mới về nhà. Bác mắng bác gái đã để bác phải nhịn đói suốt ngày. Bác gái phân trần: "Có phải tại tôi đâu, con bé lớn đem bữa trưa cho mình. Chắc hẳn nó lạc đâu rồi, mai nó về". 
Hôm sau trời chưa sáng, bác tiều phu đã dậy để lại đi rừng: bác dặn vợ để con gái thứ hai mang bữa trưa vào rừng cho bác. "Tôi sẽ đem theo một túi đỗ. Hột đỗ nhỉnh hơn hạt kê, dễ thấy hơn, không sợ con lạc nữa". 
Đến trưa cô thứ hai đem bữa đến chỗ bố. Song cũng như ngày hôm trước, đỗ đã bị chim rừng ăn sạch rồi. Cô bé đi loanh quanh trong rừng, tối hôm đó cô cũng tới căn nhà có ông cụ râu bạc. Cô cũng xin ăn và xin trọ. Ông cụ quay lại hỏi ba con vật: 
Ới gà mái! Ới gà trống! Ới bò hoa lông đốm! Chúng mày nghĩ sao? 
Ba con vật đồng thanh trả lời: "Được!". Mọi việc sau đó lại xảy ra hệt như hôm trước. Cô bé nấu một bữa ăn ngon, cùng ngồi ăn uống với ông cụ, song không đoái hoài gì tới ba con vật. Đến lúc cô hỏi chỗ ngủ. Ba con vật đồng thanh đáp: 
Cô đã ăn với cụ ấy, Cô đã uống với cụ ấy, Cô chẳng đoái tới bọn này Giờ ngủ đâu, cô liệu lấy. 
Sau khi cô ngủ rồi, ông cụ lên nhìn cô lắc đầu. Ông cụ cũng cho cô tụt xuống hầm như cô chị. Sáng hôm sau, bác tiều phu dặn vợ: "Bữa nay mình để con bé út nó mang cái ăn cho tôi vậy. Con bé biết vâng lời, nó sẽ đi đến nơi về đến chốn, chẳng giống như các chị nó đâu! Hai đứa ấy cứ như mấy con ong dại, suốt ngày bay nhởn nhơ". 
Bác gái không ưng nên hỏi lại: "Thế lại muốn mất nốt cả đứa con gái tôi cưng nhất hay sao?". Bác trai đáp: "Mình đừng lo, con bé ấy thông minh và rất khôn, nó sẽ không lạc đâu. Vả bữa nay tôi đem đỗ Hà Lan đi kia mà. Giống đỗ này to hơn giống đỗ thường, mất dấu đường sao được!".
Nhưng đến lúc con bé con mang làn đi thì dọc đường có bao nhiêu hột đỗ đậu đều vào diều lũ gà rừng cả rồi. Cô chẳng còn biết đường đi lối nào nữa. Cô bé con lo lắng, cô lo bố đói, lo không về thì mẹ sẽ than vãn. Tối đến, thấy có ánh đèn, cô theo hướng đó lần tới. Cô nói rất lễ phép, xin ngủ nhờ một đêm. Ông cụ già râu bạc quay lại hỏi mấy con vật: 
Ới gà mái! Ới gà trống! Ới bò hoa lông đốm! Chúng mày nghĩ sao? 
 truyen co tich: ngoi nha trong rung - 1
Cô đi lấy lúa mạch rắc cho hai con gà ăn và đi bê vào cho con bò cả một ôm rơm ngát mùi thơm. (Ảnh minh họa)
"Được", chúng đồng thanh trả lời. Cô bé bước ngay tới lò sưởi chỗ mấy con vật nằm, khẽ vuốt ve bộ lông óng mượt của hai con gà, rồi lại xoa đầu con bò lông đốm. Sau đó theo lời ông cụ dặn, cô đi nấu ăn. Nấu xong, bưng bát ra bàn đâu đấy. Cô tự hỏi: "Mình no mà để mấy con vật khôn ngoan kia nhịn đói có đành lòng không? Ngoài ấy thiếu gì thức ăn phải cho chúng ăn no cái đã". 
Cô đi lấy lúa mạch rắc cho hai con gà ăn và đi bê vào cho con bò cả một ôm rơm ngát mùi thơm. Cô trìu mếm nói với mấy con vật: "Chúc các bạn ăn ngon nhé. Nếu khát, tôi sẽ lại đi kiếm nước mát về cho mà uống".
Nói đoạn, cô đi xách một thùng nước đầy. Hai con gà nhảy lên mép thùng, chúng cứ nhúng mỏ xuống nước, rồi lại vươn cổ lên một hồi, uống như giống chim thường làm. Còn bò ta làm thẳng một hơi ra trò. Cho mấy con vật ăn uống no nê rồi, cô bé mới lại ngồi vào bàn ăn nốt những thức ăn ông cụ còn bỏ thừa lại. Một lúc sau, đôi gà bắt đầu rúc đầu dưới cánh. Bò cũng chớp mắt liên hồi. Cô bé liền hỏi:
Giờ ta đi ngủ rồi chứ nhỉ? Phải không, gà mái? Phải không, gà trống? Phải không, bò lông đốm? Có đúng thế không? 
Mấy con vật đồng thanh đáp: 
Đúng, cô đã ăn với bọn tôi, Cô đã uống với bọn tôi. Cô đã không quên bọn tôi. Đêm nay chúc cô ngon giấc. 
Cô bé trèo lên gác, giũ gối, trải khăn đâu đấy chờ cho ông cụ đi nằm, chòm râu bạc dài chấm chân, rồi cô mới lên giường ngủ. Ngủ được một giấc ngon đến nửa đêm bỗng thấy nhà cửa tự lay chuyển, cô tỉnh dậy. Cả bốn góc nhà bắt đầu chuyển răng rắc, cánh cửa lớn cứ sập vào rồi lại tự mở ra đập sầm sầm vào tường. Xà nhà như muốn rơi, gác như muốn đổ. Sau đó, dường như cả mái nhà muốn sập. Rồi lại thấy yên tĩnh, cô bé thấy mình chẳng việc gì nên cứ nằm yên và ngủ lại.
Sớm ngày hôm sau, cô tỉnh dậy trong ánh nắng tươi sáng, và lạ chưa, cô thấy mình đang nằm trong một căn phòng lớn, quang cảnh xung quanh vô cùng lộng lẫy. Tường bọc toàn bằng lụa mầu lá cây, làm nền cho những cụm hoa vàng thật. Giường nằm bằng ngà, chăn bọc nhung đỏ. Cạnh giường có một cái ghế trên xếp một đôi hài thêu điểm trân châu. Cô cứ ngỡ mình nằm mơ.
Nhưng kìa đã thấy ba người hầu ăn mặc rất sang: Họ bảo cô có sai bảo gì không. Cô bảo họ: "Các bác cứ ra đi, tôi sẽ dậy ngay đây. Cứ để tôi nấu cháo cho ông cụ xong tôi sẽ cho gà, cho bò lông đốm ăn sau". Cô nghĩ bụng chắc ông cụ dậy rồi. Cô ngoảnh sang giường bên xem sao nhưng không thấy ông cụ mà lại thấy một người lạ, trẻ, đẹp. Cô đang ngắm nghía thì người ấy đã trở dậy bảo cô: 
- Ta chính là một Hoàng tử đã bị một con mụ phù thủy hiểm độc phù phép hãm hại. Nó đã biến ta thành một ông già tóc bạc, đẩy ta ở giữa rừng sâu với ba người hầu cũng đã bị nó biến thành một con gà mái, một con gà trống và một con bò sữa.
Phép yêu ấy chỉ được giải khi nào có một người con gái tốt bụng tới đây, không những biết thương người mà biết thương cả giống vật. Người con gái đó là nàng. Nửa đêm hôm qua, nàng đã giải thoát cho bọn ta, ngôi nhà cổ giữa rừng đã thành nguyên hình là cung điện của ta trước kia. 
Đợi cô dậy rồi, Hoàng tử sai ba người hầu đi mời bố mẹ đến để làm lễ cưới. 
Cô hỏi: 
- Nhưng hai chị của thiếp hiện giờ ở đâu? 
- Ta đã giam hai cô đó xuống hầm. Mai ta sẽ giải vào rừng. Họ sẽ phải hầu hạ một người đốt than ở đó cho tới khi nào họ biết sửa lỗi, biết thương yêu súc vật, không để chúng khỏi đói khát. 
Nhà các em có nuôi con vật nào trong nhà không, mèo, chó, hay gà... Đối với con vật nào cũng thế thôi, các em phải luôn thương chúng vì chúng luôn giúp ích cho ta và không phải bị giam như hai cô 

Thứ Tư, 2 tháng 3, 2016

Chuyện Công và Quạ





Ngày xưa Công với Quạ là hai con vật có bộ lông xấu xí nhưng chơi rất
thân với nhau và cùng sống trong một khu rừng nọ. Một hôm Quạ bảo Công
rằng:


- Bạn nhìn xem, các giống chim trên rừng, trên núi, giống nào cũng đẹp. Này như con phượng hoàng
trông anh ấy kiêu hãnh biết bao, đến nỗi người ta thường khen: "Một cái
lông con phượng hoàng bằng cả một làng chim chích". Còn như chim hạc thì hình dạng, chân, tóc nó thanh tao biết bao, để cho người ta phải nói: "Hạc đứng chầu vua nghìn năm tóc bạc, tuổi rùa càng xinh". Còn như anh em ta đây thì than ôi! thân hình thật không còn giống nào xấu bằng nữa!


Công nói: - Phận xấu đành vậy, chớ biết làm sao bây giờ?


Quạ nghĩ một lúc rồi bàn rằng: - Xấu mà làm ra đẹp, cũng được chớ gì!
Bây giờ hai chúng ta thử tô điểm vẽ vời lẫn cho nhau xem có đẹp hay
không nhé?


Công bằng lòng.


Quạ bèn tô điểm, vẽ vời cho Công trước: cái đuôi Công trở nên lóng
lánh, có bao nhiêu màu sắc đẹp, đẹp hơn những giống chim khác rất nhiều.


Đến lượt Công ngồi tô điểm, vẽ vời cho Quạ thì chợt nghe tiếng ríu
rít, biết bao nhiêu chim con ở phía đông bay lại. Quạ liền hỏi:


- Các bạn đi đâu mà kéo đàn, kéo lũ như thế?


Đàn chim nói: - Chúng tôi nghe đồn ở dưới phương nam có thật nhiều gạo, nhiều và rất nhiều đồ ăn ngon khác... Chúng tôi rủ nhau đi kiếm ăn đây. Anh làm gì đấy... Hay ta cùng đi một thể?


Quạ nghe nói, trong lòng háo hức muốn đi theo đàn chim kia ngay lập tức. Quạ mới nói với Công rằng:


- Bây giờ mà tôi ngồi đợi để cho anh tô điểm vẽ vời, thì chưa biết
đến bao giờ mới xong. Thôi, hay sẵn cả đĩa mực đây, anh cứ cầm thế mà đổ
lên mình tôi để tôi đi theo bọn kia, kẻo lỡ mất một dịp may kiếm ăn
tốt.


Công thấy Quạ bảo thế, chiều ý làm theo, cầm cả đĩa mực dốc vào mình
Quạ. Thành bao nhiêu lông

       



                                                    bản 2

Ngày xưa, Quạ và Công chơi rất thân với nhau, gắn bó như chân với
tay. Một phần vì ở cạnh nhau, phần khác, Quạ và Công giống nhau như đúc
với bộ lông đen xì, lúc nào cũng như mới rúc từ bùn lên, vì đúng là
chúng đang sống ở khu Đầm Lầy thật. Nhìn vào Quạ: bé nhỏ, đối lập với
cái mỏ lúc nào cũng ngoác ra, Công thì càng tệ hơn: cái đầu bé tí chẳng
cân xứng với người, một cái cổ dài khẳng khiu thật khó coi. Nhưng cả hai
đều tự thấy chẳng có gì phải xấu hổ cả, cứ sống tốt và gắn bó với nhau
là đủ, hàng ngày cả hai đi kiếm thức ăn và chia sẻ cho nhau.


Vào một năm mất mùa, thức ăn chẳng có, Quạ và Công phải đi tìm một
vùng đất mới. Cả hai động viên nhau bay ngày này qua tháng khác để sang
vùng Đồng Xanh, nổi tiếng với không gian trong lành, thức ăn thì vô tận.
Rồi cũng đến nơi, Quạ và Công vui mừng lắm, ào ngay xuống những ruộng ngô.
Bất chợt, một đàn chim lạ xuất hiện, hung hăng bảo vệ hoa màu. Cả hai
chợt nhớ ra, chủ vùng đất này là những con chim nổi tiếng khó tính,
chúng căm ghét những thứ dơ bẩn, xấu xí lọt vào vùng đất của mình, bởi
bản thân chúng là những con chim trắng muốt, đẹp vô cùng. Nhìn lại mình,
không còn cách nào khác, cả hai lủi thủi lánh tạm ra xa.


Nghĩ ngợi, nhìn sang cánh đồng hoa đầy màu sắc, Quạ mừng rỡ vì đã có
một cách để lọt vào Đồng Xanh. Những cánh hoa được ngắt nhỏ, vò nát, vắt
ra những thứ nước màu rất đẹp: xanh, đỏ, làm, vàng, tím thật bắt mắt.
Quạ như thế nhưng rất khéo tay, bắt Công đứng yên, tỉ mẫn vẽ những hoa
văn lên cánh, lên thân và cả cái đầu bé tí. Một lúc sau, đến Công cũng
không thể nhận ra mình được nữa, một bộ lông đẹp vô cùng với những hoa
văn sắc màu rực rỡ. Bỗng những tiếng kêu vàng lên, từ xa, đàn chim chủ
đất đã phát hiện ra, đang bay đến rất hung hăng. Công cuống cuồng thế
nào, đổ ngay thứ nước màu đen lên mình Quạ. Đàn chim đã đến rất gần, sợ
quá, cả hai vội cất cánh định bay đi. Nhưng chim đầu đàn bỗng cất tiếng
gọi. Lạ thật. Hóa ra, với bộ lông mới, Công đã lấy được cảm tình của đàn
chim, ngay sau đó được mời vào sống trong vùng đất này.


Còn Quạ, cứ mải miết bay với nỗi sợ, đến khi quay lại chẳng thấy bạn
đâu, đành tiếp tục bay đi tìm một vùng đất khác. Thương bạn lắm, nhưng
chẳng còn cách nào, Công ngậm ngùi ở lại vùng Đồng Xanh, ngày ngày nhớ
về người bạn Quạ, mong rằng một ngày Quạ cũng có một bộ lông đẹp như
mình, sẽ có một cuộc sống tốt đẹp hơn.